Trần Hồ công

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Hồ công
陳胡公
Vua chư hầu Trung Quốc
Vua nước Trần
Trị vì1045 TCN - 986 TCN
Tiền nhiệmKhông có (Quân chủ kiến quốc)
Kế nhiệmTrần Thân công
Thông tin chung
Mất986 TCN
Trung Quốc
Hậu duệTrần Thân công
Trần Tương công
Tên thật
Quy Mãn (媯滿)
Thụy hiệu
Hồ công (胡公)
Chính quyềnnước Trần

Trần Hồ công (chữ Hán: 陳胡公; 1071 TCN- 986 TCN), tên thật là Quy Mãn (媯滿), là vị vua đầu tiên của nước Trầnchư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Dòng họ[sửa | sửa mã nguồn]

Quy Mãn sinh ngày 15 tháng 10 thời Trụ Vương nhà Ân năm thứ 9 (khoảng năm 1067 TCN). Ông là dòng dõi vua Ngu Thuấn. Vua Thuấn lấy hai người con gái vua Nghiêu, hai bà vợ về ở đất Quy. Dòng dõi vua Thuấn sau đó lấy Quy (媯) làm họ. Sau đó vua Thuấn truyền ngôi cho vua Hạ Vũ, con vua Thuấn là Thương Quân (商均) lấy đất Quy làm phong ấp.

Khi Chu Vũ Vương diệt Trụ lật đổ nhà Ân dựng lên nhà Chu, bèn tìm dòng dõi vua Thuấn để phong đất thì tìm được Quy Mãn. Chu Vũ Vương phong Quy Mãn ở đất Trần, làm chư hầu nhà Chu và thờ tự vua Thuấn, tức là Trần Hồ Công.

Sử sách không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Trần trong thời gian ông làm vua.

Ngày 15 tháng 1 năm 986 TCN, Trần Hồ Công qua đời. Ông ở ngôi được 60 năm. Con ông là Quy Tê Hầu lên nối ngôi, tức là Trần Thân Công.

Ảnh hưởng trong lịch sử Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối thế kỷ 14 tại nước Đại Việt, ngoại thích Lê Quý Ly lật đổ nhà Trần, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, đổi sang họ Hồ (胡), lập nên nhà Hồ.

Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì tổ tiên của ông là Hồ Hưng Dật (胡興逸, 907 -?) là thái thú Diễn Châu đời Hậu Hán.., quê gốc ở Chiết Giang, Trung Quốc. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng DậtHồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Huấn , khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ và sai sót khi cho rằng họ Hồ có thủy tổ là Hồ Công Mãn, dòng dõi vua Thuấn, đặt sang quốc hiệu Đại Ngu để kế tục Ngu Thuấn.

Một số nguồn khẳng định[ai nói?] Hồ Quý Ly đã nhận sai. Dòng dõi vua Thuấn chỉ có chi họ Diêuhọ Quy chứ không có chi nào họ Hồ.[nghiên cứu chưa công bố?] Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Hồ Công Mãn là thủy tổ họ Trần chứ không phải họ Hồ.[cần dẫn nguồn] Hồ công Mãn chỉ là một cách gọi tắt, cách gọi đầy đủ là Trần Hồ công Quy Mãn. Công là tước hiệu, Hồ là thụy hiệu chứ không phải họ. Các vua nước Trần từ thời Tây Chu trở đi đều là dòng dõi Trần Hồ Công chứ không phải mang họ Hồ. Do đó Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ và nhận dòng dõi vua Thuấn chỉ là mượn danh dòng họ đế vương cổ xưa.[1] Sau này nhà Minh sang đánh Đại Ngu cũng kể ra một trong 22 tội của Hồ Quý Ly là tự ý đổi từ họ Lê sang họ Hồ[2].

Tuy nhiên, sách Thông chí (zh) soạn thời nhà Tống ghi nhận những trường hợp hậu duệ sử dụng thuỵ hiệu của tổ tiên để làm họ, và họ Hồ là một trong số đó.[3]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 403-404
  2. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 52
  3. ^ Trịnh, Tiều; và đồng nghiệp. “Thị tộc lược”. Thông chí.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Sử ký Tư Mã Thiên các thiên:
    • Chu bản kỷ
    • Trần Kỷ thế gia
  • Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
  • Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội