Nevermind
Nevermind | ||||
---|---|---|---|---|
![]() | ||||
Album phòng thu của Nirvana | ||||
Phát hành | 24 tháng 9 năm 1991 | |||
Thu âm | 2–28 tháng 5 năm 1991[1][2] 1–9 tháng 6 năm 1991 (giai đoạn trộn nhạc)[3] Tháng 4 năm 1990 ("Polly") | |||
Phòng thu |
| |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 42:36 (49:07 nếu tính cả ca khúc ẩn) | |||
Hãng đĩa | ||||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự album của Nirvana | ||||
| ||||
Đĩa đơn từ Nevermind | ||||
|
Nevermind là album phòng thu thứ hai của ban nhạc rock người Mỹ Nirvana, được DGC Records phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 1991. Đây là album đầu tiên của Nirvana được phát hành qua một hãng đĩa lớn và cũng là album đầu tiên có sự góp mặt của tay trống Dave Grohl. Được sản xuất bởi Butch Vig, Nevermind mang âm hưởng được trau chuốt và thân thiện với sóng radio hơn so với các tác phẩm trước đó của ban nhạc. Nhạc phẩm được thu âm tại Sound City Studios ở Van Nuys, California và Smart Studios ở Madison, Wisconsin vào tháng 5 và tháng 6 năm 1991; sau đó được master vào tháng 8 cùng năm tại Mastering Lab ở Hollywood, California.
Được sáng tác chủ yếu bởi thủ lĩnh Kurt Cobain, Nevermind được ghi nhận là đã truyền tải một loạt cung bậc cảm xúc khác nhau từ đen tối, hài hước cho đến bất an. Các chủ đề xuyên suốt album bao gồm quan điểm phản kháng thể chế và chống phân biệt giới tính, nỗi chán chường, cảm giác cô lập cộng với tình yêu trắc trở, lấy cảm hứng từ mối quan hệ tan vỡ giữa Cobain và Tobi Vail của ban nhạc Bikini Kill. Trái ngược với những chủ đề mang tính khoái lạc như ma túy và tình dục vốn đang thịnh hành lúc bấy giờ, nhiều nhà phê bình nhận định rằng Nevermind đã xây dựng hình ảnh nghệ sĩ nhạy cảm trong dòng nhạc rock chính thống.[4] Theo lời Cobain, âm thanh của album chịu ảnh hưởng từ các ban nhạc như Pixies, R.E.M., the Smithereens và Melvins. Mặc dù được coi là album tiêu biểu nhất của dòng nhạc grunge, Nevermind vẫn đa dạng trong âm nhạc – từ các bản ballad acoustic ("Polly" và "Something in the Way") cho tới những ca khúc hard rock đậm chất punk ("Territorial Pissings" và "Stay Away").[5]
Nevermind thành công vượt ngoài mong đợi cả về mặt phê bình lẫn thương mại, lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng âm nhạc toàn cầu. Vào ngày 11 tháng 1 năm 1992, album này đã soán ngôi vị quán quân từ Dangerous của Michael Jackson trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ, với doanh số lúc đấy đạt khoảng 300.000 bản mỗi tuần. Đĩa đơn mở đường "Smells Like Teen Spirit" đã lọt vào Top 10 bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và sau này được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Grammy. Video âm nhạc của bài hát được phát sóng với tần suất dày đặc trên MTV. Ngoài ra, ba đĩa đơn khác từ album cũng rất thành công gồm "Come as You Are", "Lithium" và "In Bloom". Tác phẩm được bầu chọn là "Album xuất sắc nhất năm" trong cuộc thăm dò ý kiến Pazz & Jop, trong khi "Smells Like Teen Spirit" cũng đứng đầu ở hạng mục Đĩa đơn của năm và Video của năm. Nevermind còn giúp ban nhạc nhận được ba đề cử giải Grammy trong hai năm liên tiếp (lần thứ 34 và 35), trong đó có hạng mục Album nhạc alternative xuất sắc nhất.
Nevermind đã đưa Nirvana vươn lên hàng siêu sao toàn cầu và Cobain được mệnh danh là "tiếng nói của cả một thế hệ". Album này không chỉ mang grunge và alternative rock đến với khán giả đại chúng mà còn đẩy nhanh sự thoái trào của thể loại hair metal, tạo nên một hiện tượng được ví như cuộc xâm lăng của nước Anh vào nền âm nhạc đại chúng Mỹ hồi đầu thập niên 1960. Album cũng thường được ghi nhận là khởi nguồn cho sự hồi sinh của văn hóa punk trong giới thanh thiếu niên thuộc thế hệ X. Với hơn 30 triệu bản được tiêu thụ trên toàn thế giới, Nevermind trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại. Vào tháng 3 năm 1999, album được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận Kim cương. Được coi là một trong những album được giới phê bình tán dương và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử âm nhạc, tác phẩm đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Lưu trữ Thu âm Quốc gia năm 2004 vì giá trị "văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ đặc biệt" – đồng thời thường xuyên góp mặt trong các bảng xếp hạng album vĩ đại nhất mọi thời đại, nổi bật là vị trí thứ 6 trong danh sách "500 Album vĩ đại nhất mọi thời đại" của Rolling Stone vào năm 2020 và 2023. Về sau, album đã được tái phát hành nhiều lần với các bản thu thay thế và các buổi biểu diễn trực tiếp.
Bối cảnh và các buổi thu âm ban đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Vào đầu năm 1990, Nirvana bắt đầu lên kế hoạch cho album thứ hai của mình dưới trướng hãng đĩa Sub Pop, với nhan đề tạm thời là Sheep. Theo gợi ý của Bruce Pavitt – người đứng đầu Sub Pop – Nirvana đã chọn Butch Vig làm nhà sản xuất.[6] Ban nhạc đặc biệt yêu thích các sản phẩm mà Vig từng thực hiện với nhóm Killdozer.[7] Họ đã đến phòng thu Smart Studios của Vig tại Madison, Wisconsin và tiến hành thu âm từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 4 năm 1990.[8] Phần lớn các bản phối cơ bản đã hoàn tất, tuy nhiên nhạc sĩ chính Kurt Cobain vẫn đang tiếp tục viết lời và cả ban nhạc thì vẫn lưỡng lự về việc sẽ chọn bài nào để thu.[9] Cuối cùng, họ đã thu tổng cộng tám ca khúc, một số trong đó về sau được thu lại để đưa vào Nevermind bao gồm: "Imodium" (sau này đổi tên thành "Breed"), "Dive" (sau đó phát hành dưới dạng mặt B của đĩa đơn "Sliver"), "In Bloom", "Pay to Play" (sau này được đổi tên thành "Stay Away"), "Sappy", "Lithium", "Here She Comes Now" (được phát hành trong album tuyển tập Heaven & Hell: A Tribute to the Velvet Underground) và "Polly".[10]
Vào ngày 6 tháng 4, Nirvana diễn tại một show nhạc địa phương ở Madison cùng với ban nhạc Tad đến từ Seattle.[11] Vig bắt đầu tiến hành công đoạn trộn nhạc các bản thu âm, trong khi ban nhạc tham gia một buổi phỏng vấn trên đài phát thanh cộng đồng WORT của Madison vào ngày 7 tháng 4.[12] Cobain đã bị căng giọng trong thời gian này, buộc Nirvana phải tạm dừng quá trình thu âm. Đến ngày 8 tháng 4, họ lên đường tới Milwaukee để khởi động chuyến lưu diễn quy mô lớn ở vùng Trung Tây và bờ Đông nước Mỹ, với tổng cộng 24 buổi diễn trong vòng 39 ngày.[13] Sau khi tour diễn khép lại, tay trống Chad Channing rời nhóm khiến các hoạt động thu âm tiếp theo bị tạm hoãn.[14] Trong một buổi diễn của ban nhạc hardcore punk Scream, Cobain và tay bass Krist Novoselic đã rất ấn tượng với tay trống Dave Grohl của nhóm này. Khi Scream bất ngờ tan rã, Grohl liên hệ với Novoselic, rồi di chuyển đến Seattle và được mời gia nhập Nirvana. Nhìn lại, Novoselic nói rằng với sự xuất hiện của Grohl, mọi thứ như "vào guồng một cách trơn tru".[6]
Bước sang thập niên 1990, Sub Pop bắt đầu gặp phải khó khăn tài chính. Khi xuất hiện những tin đồn rằng Sub Pop có thể trở thành công ty con của một hãng thu âm lớn, Nirvana quyết định "bỏ qua khâu trung gian" và tự mình tìm kiếm một hãng đĩa lớn.[6] Họ đã sử dụng các bản thu âm sẵn có như một bản demo để chào mời các hãng đĩa lớn. Chỉ trong vài tháng, cuộn băng này đã được lan truyền rộng rãi giữa các hãng thu âm lớn.[14] Nhiều hãng đã tìm cách chiêu mộ Nirvana và cuối cùng họ chọn ký hợp đồng với DGC Records – một nhánh của Geffen Records – theo lời giới thiệu của Kim Gordon (thành viên ban nhạc Sonic Youth).[15]
Sau khi ký hợp đồng với DGC, nhiều nhà sản xuất đã được gợi ý bao gồm Scott Litt, David Briggs, Don Dixon và Bob Mould.[16] Song Novoselic chia sẻ rằng cả nhóm đều cảm thấy lo lắng khi lần đầu tiên làm việc dưới trướng một hãng đĩa lớn, và các nhà sản xuất do DGC đề xuất thì muốn hưởng phần trăm doanh thu từ album. Thay vào đó, ban nhạc đã kiên quyết lựa chọn Vig, người mà họ cảm thấy thoải mái khi làm việc cùng.[17]
Thu âm và sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu năm 1990, Nirvana lên kế hoạch thực hiện album thứ hai của họ với tên Sheep. Lần này, quản lý của Sub Pop là Bruce Pavitt đã gợi ý Butch Vig trở thành nhà sản xuất cho album. Nirvana vốn rất thích thú với những dự án của Vig cho nhóm Killdozer nên đã chủ động liên hệ: "Chúng tôi muốn có những âm thanh cũng mạnh mẽ như vậy."[7] Đến tháng 4, cả nhóm bay tới phòng thu Smart Studios của Vig ở Madison, Wisconsin để bắt đầu công việc. Hầu hết những phần hòa âm cơ bản của các ca khúc đều được thực hiện trong thời gian này, song Cobain vẫn có nhiều khó khăn trong việc chọn ca từ, còn bản thân ban nhạc cũng chưa chắc chắn sẽ chọn ca khúc nào để thu âm.[18] Tuy nhiên, đã có tám ca khúc được thu tại đây, bao gồm "Imodium" (sau này được đổi tên thành "Breed"), "Dive" (sau này được cho vào mặt B của đĩa đơn "Sliver"), "In Bloom", "Pay to Play" (sau đó được đổi tên thành "Stay Away" với phần lời mới hoàn toàn), "Sappy", "Lithium", "Here She Comes Now" (sau này được cho vào album tri ân Velvet Underground Tribute Album: Heaven and Hell Volume 1) và "Polly".[19] Nhóm cũng muốn thu thêm vài bài nữa, nhưng vì giọng của Cobain đã bị biến dạng sau khi thu "Lithium" nên buộc tất cả phải dừng công việc lại. Vig đề nghị nhóm hãy quay lại nếu tiếp tục thu âm các ca khúc, song ông không được nghe câu trả lời nào.[6] Thực tế, ban nhạc đã lấy những buổi thu tại đây làm demo để đi tìm hãng đĩa mới. Chỉ vài tháng sau, các bản demo này đã được chuyển qua lại giữa nhiều hãng đĩa, tạo nên vài lời xì xào về ban nhạc.[20]
Sau khi ký hợp đồng với DGC, hàng loạt nhà sản xuất được hãng giới thiệu, có thể kể tới Scott Litt, David Briggs và Don Dixon, song Nirvana lại đề nghị Butch Vig.[21] Novoselic nói vào năm 2001, rằng ban nhạc đã phát bực với hãng đĩa về việc thu âm và các nhà sản xuất đã nói rằng thực ra DGC muốn có vài phần trăm từ việc thực hiện album này. Cuối cùng, họ đã cộng tác với Vig, người mà họ cảm thấy thoải mái nhất.[17] Với tổng số tiền sản xuất là khoảng 65.000$, Nirvana đã thu âm Nirvana tại phòng thu Sound City Studios tại Van Nuys, California trong tháng 5-6 năm 1991.[22] Họ ban đầu dự định thực hiện album từ tháng 3, song cuối cùng đã bị đình trệ vì nhóm khi đó chưa có hứng để bắt đầu việc thu âm. Để có tiền bay tới Los Angeles, ban nhạc đã phải làm một buổi diễn nhỏ mà tại đây họ đã trình bày "Smells Like Teen Spirit" lần đầu tiên.[6] Nirvana sau đó đã mang tới cho Vig tất cả các bản thu từ trước cũng như tại Smart Studios, ngoài ra còn có vài ca khúc mới như "Smells Like Teen Spirit" và "Come as You Are".[23]
Khi cả nhóm tới California, Nirvana đã tận dụng vài ngày tiền-sản-xuất khi họ cùng Vig tiến hành sửa sang lại các bản hòa âm.[24] Chỉ có duy nhất một ca khúc được giữ nguyên từ thời kỳ Smart Studios là "Polly", trong đó có cả tiếng chũm chọe đánh lỗi bởi Chad Channing. Khi tất cả quá trình hoàn thiện, ban nhạc trở lại với lịch làm việc 10 tiếng/ngày. Mỗi ca khúc được họ thu hai hoặc ba bản với các nhạc cụ khác nhau và nếu bản thu không làm họ hài lòng ở bất kể điểm nào, họ liền tiến tới việc thực hiện một điều gì mới.[25] Họ cũng thử chơi các ca khúc vô số lần trước khi thu, dẫn tới việc xuất hiện rất nhiều bản nháp.[17] Novoselic và Grohl thì sớm hoàn thiện phần chơi bass và trống, song Cobain phải phụ trách lượng công việc lớn hơn với guitar, ghi đè, hát và đặc biệt là viết lời (đôi khi chỉ được hoàn thành vài phút trước khi bắt đầu thu âm chính thức).[26] Thường thì phần thu của Cobain nằm rải rác ở nhiều băng thâu và được Vig trộn lại bằng kỹ thuật ghi đè.[25] Vig cũng nói rằng chính ông đã gợi ý Cobain sử dụng kỹ thuật ghi đè này sau khi thấy anh thu rất nhiều bản. Đặc biệt, ông đã thuyết phục được Cobain ghi đè với "In Bloom" sau khi nói "John Lennon cũng đã làm như vậy đấy."[6] Sau khi tất cả mọi việc đã tương đối, Vig nhớ lại rằng Cobain trở nên ủ rũ và khá khó gần: "Cậu ấy đã rất tuyệt vời sau hàng giờ, rồi đột nhiên cậu ta ngồi một góc và không nói gì suốt hàng giờ."[7]
Sau khi quá trình thu âm kết thúc, Vig và ban nhạc bắt đầu quá trình trộn âm. Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày, họ đã nhanh chóng cảm thấy không hài lòng về chất lượng trộn âm. Vì thế họ đã yêu cầu có thêm vài chuyên gia tới hỗ trợ, và Geffen Records đã nhờ tới DGC nhằm đưa ra những lựa chọn cần thiết. Danh sách của DGC có nhiều cái tên quen thuộc, như Scott Litt (phụ trách của R.E.M.) hay Ed Stasium (phụ trách của The Smithereens). Tuy nhiên, Cobain lại cảm thấy không hứng thú do anh không muốn sản phẩm của mình lại giống với những nhóm nhạc trên. Cuối cùng, họ chọn Andy Wallace (người từng sản xuất album nổi tiếng Seasons in the Abyss của Slayer) – vốn chỉ là cái tên cuối cùng của danh sách.[27] Novoselic nhớ lại: "Chúng tôi đã nói "Đây rồi!" vì các bản thu của Slayer nghe rất mạnh mẽ."[28] Wallace liền mang các ca khúc cùng với rất nhiều máy trộn âm, nhấn mạnh vào tiếng trống và đặt chỉ tiêu mỗi ngày hoàn thiện một bài.[29] Cả Vig lẫn Wallace đều công nhận rằng ban nhạc đã rất thích phần trộn âm này.[30] Tuy nhiên, ngay sau khi album được phát hành, các thành viên của Nirvana đều tỏ thái độ không hài lòng với phần âm thanh có được từ Nevermind. Trong cuốn Come as You Are, Cobain bộc bạch: "Cứ nhìn lại quá trình thực hiện Nevermind là tôi lại cảm thấy phiền lòng. Nó cứ như kiểu một sản phẩm của Mötley Crüe được trình bày theo kiểu punk rock."[29]
Nevermind được chỉnh âm toàn bộ vào lúc chiều tối ngày 2 tháng 8 tại The Mastering Lab ở Hollywood, California. Howie Weinberg bắt đầu công đoạn một mình này khi toàn bộ nhân viên của phòng thu đều không thể thu xếp vào khoảng thời gian này; khi Nirvana, Andy Wallace và Gary Gersh tới, Weinberg đã hoàn chỉnh hầu hết cả album.[31] Một trong những ca khúc được chỉnh âm vào lúc đó chính là ca khúc ẩn "Endless, Nameless" đã được chèn vào phía cuối của "Something in the Way" vì một sai sót của Weinberg. Ông nhớ lại: "Ban đầu, như kiểu ai đó đã từng nói rằng nên đưa ca khúc đấy vào sau ca khúc cuối cùng của album. Có thể tôi đã nghe nhầm hướng dẫn, nên bạn có thể quy đó là lỗi của tôi. Có thể tôi đã quên không viết điều đó ra giấy khi Nirvana và hãng đĩa giải thích. Vậy nên nó không tồn tại trong khoảng 12.000 sản phẩm đầu tiên cho CD, album hay băng cassette." Khi ban nhạc phát hiện ra ca khúc này tồn tại trong album, Cobain đã yêu cầu cá nhân Weinberg phải trực tiếp sửa chữa lỗi này.[32] Weinberg liền thay thế bằng cách đè 10 phút lặng sau "Something in the Way", rồi sau đó cho phát ca khúc ẩn này trong các ấn bản sau đó của album.[33]
Âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Cobain – người viết nhạc chính của Nirvana – đã lựa chọn việc sử dụng nhiều hợp âm power chord và chú trọng việc sáng tác các ca khúc thiên về pop song theo kèm những đoạn gằn guitar. Quan điểm của anh về Nevermind là việc tạo ra âm thanh "như The Knack và The Bay City Rollers bị bắt chước bởi Black Flag và Black Sabbath."[34] Rất nhiều ca khúc của album bao gồm nhiều đoạn chuyên hợp âm dữ dội khi ban nhạc quyết định chuyển từ đoạn nhạc nhẹ nhàng sang đoạn ồn ào hơn. Dave Grohl nhớ lại rằng cách xử lý này tới từ quá trình bốn tháng thu âm album, khi ban nhạc có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các đoạn chuyển hợp âm trong quá trình thu jam.[35]
Tạp chí Guitar World viết: "Âm thanh guitar của Cobain trong Nevermind đã định hình nhạc rock thập niên 90." Trong album này, Cobain sử dụng chủ yếu chiếc Fender Mustang của những năm 1960, chiếc Fender Jaguar nhãn DiMarzio, cùng vài chiếc Fender Stratocasters có lắp humbucker. Anh cũng thường dùng các đoạn chỉnh méo âm cùng âm vọng bằng pedal, rồi cả hiệu ứng "nước" trong "Come as You Are" hay trong đoạn mở đầu của "Smells Like Teen Spirit".[36] Krist Novoselic thì thường hạ cây bass của mình xuống một cung rưỡi xuống âm Rê để "có được âm chuẩn".[gc 1][17]
Ca từ
[sửa | sửa mã nguồn]Grohl nhớ lại Cobain từng nói với anh: "Âm nhạc đi trước, ca từ theo sau," và Grohl tin rằng Cobain luôn tập trung tất cả cho giai điệu các ca khúc của mình;[6] lần này, Cobain cũng đã hoàn thành rất tốt công việc viết lời cho Nevermind. Thậm chí quan điểm của Cobain qua album này còn có nhiều lúc khó hiểu. Vig cho rằng rõ ràng khả năng của Cobain vào lúc này chưa tới đỉnh của mình. Ông bình luận: "Cho dù bạn không thể hiểu hết những gì anh ấy hát thì bạn cũng thấy nó đã rất căng rồi!"[6] Cobain sau đó đã cảm thấy bực dọc khi nhiều nhà báo cố giải mã cách hát và nghĩa của những phần ca từ anh viết. Anh từng viết: "Chuyện quái gì mà các nhà báo cứ cố tìm hiểu với một tư tưởng Freud hạng hai để đánh giá ca từ của tôi, khi mà 90% những gì họ hiểu đều sai be bét?"[37]
Charles R. Cross viết trong cuốn tiểu sử về Cobain, Heavier than Heaven (2001), rằng hầu hết những gì Cobain viết trong Nevermind đều lấy cảm hứng từ những trục trặc tình cảm với Tobi Vail. Sau khi mối quan hệ kết thúc, Cobain bắt đầu viết và vẽ theo chiều hướng bạo lực, trong đó phần nhiều là những căm hờn chính anh và mọi người. Các ca khúc được viết dù ít mang tính bạo lực hơn, nhưng vẫn mang nhiều sự khác biệt so với những sản phẩm đầu tay của anh vốn không tồn tại sự giận dữ. Cross viết: "Khoảng bốn tháng sau khi chia tay, Kurt đã viết tới nửa tá ca khúc và hầu hết đều bất hủ. Tất cả đều để nói về Tobi Vail." "Drain You" được bắt đầu bởi câu hát "One baby to another said 'I'm lucky to have met you'" vốn là lời Vail từng nói với anh, còn câu hát "It is now my duty to completely drain you" nhằm miêu tả vai trò của Vail trong mối quan hệ tình cảm với Cobain. Theo Novoselic, ""Lounge Act" là để nói về Tobi", và câu hát "I'll arrest myself, I'll wear a shield" nhằm miêu tả việc Cobain xăm hình logo của hãng K Records lên cánh tay để gây ấn tượng với Vail[gc 2]. Cho dù ca khúc "Lithium" được sáng tác trước khi Cobain gặp Vail, phần ca từ đã được thay đổi vì cô.[38] Cobain cũng từng nói với tạp chí Musician rằng "một trong những kinh nghiệm cá nhân của tôi, như việc chia tay bạn gái và có những mối quan hệ tồi tệ, khiến cho ta thấy nhân vật trong các ca khúc thực sự cô đơn và mệt mỏi."[39]
Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Bìa album mô tả một bé trai khỏa thân đang bơi dưới nước, trước mặt là một tờ đô la Mỹ được móc vào lưỡi câu treo lơ lửng ngoài tầm với của đứa bé. Theo lời Cobain, ý tưởng này nảy sinh khi anh xem một chương trình truyền hình về sinh con dưới nước. Cobain về sau đã chia sẻ ý tưởng đó với Robert Fisher – giám đốc nghệ thuật của Geffen. Fisher đã tìm được một số đoạn phim tư liệu có sẵn về cảnh sinh nở dưới nước, nhưng chúng quá nhạy cảm để hãng đĩa có thể sử dụng. Thêm vào đó, kho tư liệu ảnh sở hữu bản quyền bức hình một em bé đang bơi mà họ định chọn lại đòi mức phí sử dụng lên tới 7.500 đô mỗi năm. Sau cùng, Fisher quyết định cử nhiếp ảnh gia Kirk Weddle đến một hồ bơi dành cho trẻ sơ sinh để chụp ảnh mới. Kết quả có 5 bức ảnh được thực hiện và Nirvana đã chọn bức hình ghi lại khoảnh khắc của Spencer Elden, khi ấy mới 4 tháng tuổi, con trai một người bạn của Weddle.[40] Geffen tỏ ra lo ngại rằng việc để lộ bộ phận sinh dục của đứa bé trong ảnh có thể gây tranh cãi nên họ đã chuẩn bị một phiên bản thay thế không có chi tiết nhạy cảm này. Tuy nhiên, họ đã bỏ phương án đó sau khi Cobain cương quyết phản đối và tuyên bố rằng phương án duy nhất anh chấp nhận để che lại phần nhạy cảm là dán thêm một sticker ghi dòng chữ: "Nếu bạn thấy bị xúc phạm bởi hình ảnh này thì chắc chắn bạn là một kẻ ấu dâm tiềm ẩn."[41] Bức ảnh sau này đã được công nhận là một trong những bìa album nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc đại chúng.[42] Vào ngày 28 tháng 10, Weddle cũng chụp một bức ảnh toàn bộ ban nhạc dưới nước để làm áp phích quảng bá cho Nevermind.[43][44]
Mặt sau bìa album là một bức ảnh chụp con khỉ cao su được đặt phía trước một bức tranh cắt dán do Cobain tự tay thực hiện. Bức tranh này bao gồm hình ảnh thịt bò sống cắt ra từ một quảng cáo siêu thị, một số hình minh họa từ Địa ngục của Dante và các hình ảnh âm đạo mắc bệnh lấy từ bộ sưu tập ảnh y khoa của Cobain. Nam ca sĩ từng tiết lộ: "Nếu bạn nhìn thật kỹ, ở phía sau có tấm ảnh ban nhạc Kiss đang đứng trên một tảng thịt bò."[45] Phần ghi chú (liner notes) của album không in đầy đủ lời bài hát; thay vào đó, Cobain đã tập hợp những câu hát rời rạc và các đoạn lời chưa dùng đến, rồi sắp xếp chúng lại thành một bài thơ trừu tượng.[46]
Một năm sau đó, "Weird Al" Yankovic đã nhại lại bìa Nevermind cho album của mình mang tên Off the Deep End. Trong phiên bản này, Yankovic đóng vai em bé nhưng mặc đồ bơi giấu dưới nước, còn tờ đô la được thay bằng một chiếc bánh donut. Về sau, ông đùa rằng: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình lại chụp ảnh bán khỏa thân trên bìa album."[47]
Các vụ kiện của Spencer Elden
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 8 năm 2021,[48] Elden đã đệ đơn kiện Weddle, quỹ di sản của Kurt Cobain, cũng như Grohl và Novoselic. Trong đơn kiện, Elden cáo buộc rằng việc sử dụng hình ảnh của anh trên bìa album đã được thực hiện mà không có sự đồng ý của anh hoặc người giám hộ hợp pháp vào thời điểm đó, hành động này vi phạm các đạo luật liên bang về khiêu dâm trẻ em[49] và đã gây ra "tổn thương suốt đời" cho anh.[50] Elden cho rằng – bằng việc từ chối che phần nhạy cảm bằng sticker – Nirvana đã không thực hiện trách nhiệm bảo vệ anh khỏi sự bóc lột tình dục trẻ em.[51] Đơn kiện cũng nêu rõ: “Cobain đã lựa chọn hình ảnh mô tả Spencer—giống như một người hành nghề mại dâm—đang với tay chộp lấy một tờ đô la được treo lủng lẳng trên lưỡi câu phía trước thân thể trần truồng của mình, với bộ phận sinh dục bị phơi bày một cách rõ ràng".[52][53]
Luật sư Jamie White đã chỉ trích vụ kiện là "vô căn cứ" và "quả thật xúc phạm đến những nạn nhân thực sự" của hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Giáo sư James Cohen từ Trường Luật Fordham cũng nhận định bối cảnh của bìa album không hề gợi ý tới yếu tố khiêu dâm. Cả White lẫn Cohen đều kết luận rằng Elden đã khởi kiện nhằm mục đích kiếm tiền.[54] Đến tháng 12, nhóm luật sư đại diện cho các bị đơn đã yêu cầu bác bỏ vụ kiện, lập luận rằng vụ kiện được đệ trình quá muộn so với thời hiệu pháp lý và cáo buộc cho rằng bức ảnh mô tả hành vi lạm dụng tình dục là "không nghiêm túc". Họ chỉ ra rằng Elden đã "kiếm lợi từ sự nổi tiếng của mình trong suốt ba thập kỷ với danh xưng tự phong 'Em bé Nirvana’” khi nhiều lần tái hiện hình ảnh bìa album và thậm chí còn xăm tên tác phẩm lên ngực mình. Phía bị đơn lập luận rằng bức ảnh bìa không nhằm mục đích gợi dục, mà thay vào đó gợi lên các chủ đề như lòng tham, sự ngây thơ và hình tượng minh thần trong nghệ thuật phương Tây".[55] Vì phía luật sư của Elden không đệ trình văn bản phản biện đúng hạn, vụ kiện đã bị thẩm phán bác bỏ vào ngày 3 tháng 1 năm 2022. Tuy nhiên, thẩm phán vẫn cho phép nguyên đơn có thể khởi kiện lại trong tương lai.[56]
Elden đã đệ đơn kiện lại vào ngày 14 tháng 1 năm 2022, lần này điều chỉnh nội dung của đơn kiện ban đầu bằng cách gỡ bỏ cáo buộc về buôn bán tình dục trẻ em, nhưng vẫn giữ lập luận rằng hình ảnh trên bìa album là nội dung khiêu dâm trẻ em.[57] Ngày 2 tháng 9 năm 2022, một thẩm phán đã bác đơn kiện của Elden với lý do anh đã chờ quá lâu để tiến hành khởi kiện. Tòa viện dẫn quy định về thời hiệu khởi kiện là 10 năm tính từ thời điểm nguyên đơn đủ 18 tuổi (tức tuổi trưởng thành theo luật định), đồng nghĩa với việc Elden phải đệ đơn trước khi anh tròn 28 tuổi – tức khoảng năm 2019. Ngoài ra, thẩm phán còn cấm Elden tiếp tục bổ sung thêm bất kỳ đơn kiện nào về cùng một vấn đề trong tương lai, khép lại vụ kiện một cách "chung thẩm" ở cấp tòa án quận. Nhưng vào ngày 6 tháng 9 năm 2022, Elden kháng cáo quyết định bác đơn lên Tòa Phúc thẩm Liên bang Khu vực số 9 của Hoa Kỳ[a]. Tòa đã tiến hành phiên điều trần công khai về kháng cáo của Elden vào ngày 18 tháng 10 năm 2023. Rồi đến tháng 12 năm 2023, Tòa phúc thẩm chính thức ra phán quyết có lợi cho Elden, đảo ngược phán quyết của tòa cấp dưới và cho phép vụ kiện được tiếp tục. Tòa nêu rằng việc Nevermind được tái phát hành đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 30 năm đã tạo thành một " hành vi tái công bố" (republication) và do đó phát sinh một yêu cầu pháp lý mới mà Elden có quyền theo đuổi tại tòa.[58]
Phát hành và doanh số
[sửa | sửa mã nguồn]
Nevermind lên kệ vào ngày 24 tháng 9 năm 1991. Các cửa hàng băng đĩa tại Hoa Kỳ nhận được lô hàng ban đầu gồm 46.251 bản,[60] trong khi 35.000 bản đã được xuất sang Anh Quốc – nơi album Bleach trước đó từng gặt hái được thành công nhất định.[61] Đĩa đơn mở đường "Smells Like Teen Spirit" được phát hành vào ngày 10 tháng 9 với mục đích xây dựng lượng người hâm mộ trong cộng đồng yêu nhạc alternative rock, trong khi đĩa đơn kế tiếp "Come as You Are" hứa hẹn sẽ thu hút thêm nhiều sự chú ý.[62] Vài ngày trước thời điểm phát hành chính thức, ban nhạc bắt đầu một tour diễn ngắn tại Mỹ để quảng bá cho album. Geffen kỳ vọng rằng Nevermind sẽ bán được khoảng 250.000 bản, tương đương doanh số của Goo – album đầu tay của ban nhạc Sonic Youth dưới trướng Geffen.[63] Dự đoán lạc quan nhất lúc đấy là album có thể đạt chứng nhận Vàng (bán được 500.000 bản) vào tháng 9 năm 1992.[64]
Nevermind ra mắt ở vị trí thứ 144 trên bảng xếp hạng Billboard 200.[65] Geffen đã vận chuyển khoảng một nửa số lượng bản in đầu tiên tại Hoa Kỳ tới vùng Tây Bắc nước Mỹ, nơi album bán hết nhanh chóng và bị thiếu hàng trong nhiều ngày. Geffen buộc phải tạm ngưng sản xuất tất cả các album khác nhằm tập trung đáp ứng nhu cầu ở khu vực này.[66] Trong vài tháng tiếp theo, doanh số tiêu thụ tăng vọt khi "Smells Like Teen Spirit" bất ngờ trở nên phổ biến rộng rãi. MV của bài hát lần đầu tiên được công chiếu toàn cầu trên chương trình nhạc alternative phát sóng đêm khuya của MTV 120 Minutes và nhanh chóng trở nên đủ nổi tiếng để được kênh này phát sóng vào ban ngày – khung giờ chính của kênh.[67] "Smells Like Teen Spirit" đạt vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ.[68] Chẳng bao lâu sau, album đạt chứng nhận Vàng, nhưng ban nhạc lại tỏ ra khá thờ ơ với thành tích đó. Novoselic hồi tưởng: "Ừ thì tôi thấy vui về điều đó. Cũng khá là tuyệt. Thật ra cũng hay ho phết. Nhưng tôi chẳng quan tâm gì mấy đến những thành tích kiểu đó. Ngầu thì ngầu đấy—tôi đoán vậy.[69]
Khi ban nhạc bắt đầu chuyến lưu diễn châu Âu vào đầu tháng 11 năm 1991, Nevermind lần đầu tiên lọt vào Top 40 của Billboard ở hạng 35. Tính đến thời điểm này, "Smells Like Teen Spirit" đã trở thành một bản hit thực thụ và album đang bán chạy đến mức mà mọi chiến lược tiếp thị của Geffen đều không kịp triển khai. Chủ tịch Geffen Ed Rosenblatt chia sẻ với tờ The New York Times: "Chúng tôi chẳng làm gì cả. Đây là một trong những album kiểu như 'tránh ra cho nó tự bay lên'."[70] Trong lúc Nirvana lưu diễn khắp châu Âu vào cuối năm 1991, họ nhận thấy rằng các buổi diễn thường xuyên bị bán vé vượt quá sức chứa đến mức nguy hiểm; các đoàn quay phim truyền hình liên tục hiện diện trên sân khấu; còn "Smells Like Teen Spirit" thì gần như phát liên tục trên các đài phát thanh và kênh truyền hình âm nhạc.[71]
Nevermind trở thành album đầu tiên của Nirvana đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard vào ngày 11 tháng 1 năm 1992, soán ngôi Dangerous của Michael Jackson. Vào thời điểm này, Nevermind đang bán được khoảng 300.000 bản mỗi tuần.[72][73] Album quay trở lại vị trí số 1 vào tháng 2 năm 1992.[74] Đĩa đơn thứ hai "Come as You Are" trình làng vào tháng 3 năm 1992; ca khúc đạt vị trí thứ 9 trên UK Singles Chart và thứ 32 trên Billboard Hot 100 của Mỹ.[75] Hai đĩa đơn tiếp theo "Lithium" và "In Bloom" lần lượt đạt vị trí thứ 11 và thứ 28 trên UK Singles Chart.[76]
Nevermind được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận Vàng và Bạch kim vào tháng 11 năm 1991, đồng thời được chứng nhận Kim cương vào tháng 3 năm 1999.[77] Tại Canada, album cũng được chứng nhận Kim cương (1.000.000 bản bán ra) bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Canada (CRIA) vào tháng 3 năm 2001.[78] Tại Anh Quốc, Nevermind được chứng nhận 6x Bạch kim.[79] Tính tới nay, tác phẩm đã tiêu thụ được hơn 30 triệu bản trên toàn thế giới, khiến đây trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.[80]
Đánh giá chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá chuyên môn hiện thời | |
---|---|
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
Chicago Sun-Times | ![]() ![]() ![]() ![]() |
Chicago Tribune | ![]() ![]() ![]() ![]() |
Entertainment Weekly | A−[83] |
Kerrang! | 5/5[84] |
Los Angeles Times | ![]() ![]() ![]() ![]() |
NME | 9/10[86] |
Q | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Rolling Stone | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Select | 4/5[89] |
The Village Voice | A−[90] |
Chiến dịch quảng bá truyền thông dành cho Nevermind của Geffen có quy mô khiêm tốn hơn so với tiêu chuẩn thông thường của một hãng đĩa lớn. Nhân viên phụ trách quan hệ công chúng của hãng chủ yếu nhắm tới các ấn phẩm âm nhạc có thời gian xuất bản kéo dài cũng như các tạp chí địa phương ở khu vực Seattle. Tuy nhiên, phản hồi tích cực ngoài mong đợi từ những nhà phê bình được nghe trước tác phẩm đã thuyết phục hãng xem xét việc tăng số lượng bản phát hành ban đầu của album này so với dự kiến.[61]
Thoạt tiên, Nevermind không nhận được nhiều bài đánh giá, thậm chí bị nhiều ấn phẩm phớt lờ hoàn toàn. Phải đến vài tháng sau khi phát hành – đặc biệt là sau khi ca khúc "Smells Like Teen Spirit" bắt đầu được phát rộng rãi trên sóng radio – thì các tòa soạn báo in mới "cuống cuồng" đưa tin về hiện tượng mà album đã trở thành. Song vào thời điểm đó, phần lớn sự chú ý lại đổ dồn vào Cobain thay vì chính bản thân album. Dẫu vậy, những bài phê bình xuất hiện từ sớm phần lớn đều mang tính tích cực.[91] Karen Schoemer của The New York Times nhận xét: "Với Nevermind, Nirvana thực sự đã thành công. Album chứa đựng những chất liệu âm thanh cuốn hút, sự chuyển đổi tâm trạng tinh tế, các đoạn nhạc cụ độc đáo và lối chơi chữ đầy sáng tạo đủ để khiến người nghe đắm chìm trong hàng giờ liền ... Nevermind tinh tế và được sản xuất chỉn chu hơn bất kỳ tác phẩm nào mà các ban nhạc đồng trang lứa như Dinosaur Jr. hay Mudhoney từng trình làng."[92]
Entertainment Weekly chấm Nevermind điểm A−. Nhà phê bình David Browne nhận xét rằng Nirvana "chưa bao giờ có ý định" làm cho âm nhạc của mình nghe "bình thường", đặc biệt khi so sánh với những ban nhạc alternative đương thời.[83] Trong bài đánh giá đầy hào hứng trên tạp chí Anh Melody Maker, nhà phê bình Everett True kết luận: “Khi Nirvana phát hành Bleach nhiều năm về trước, những người tinh ý trong chúng tôi đã linh cảm rằng họ có tiềm năng tạo nên một album đủ sức thổi bay mọi đối thủ cạnh tranh. Chúa ơi, họ đã chứng minh điều đó là đúng một cách tuyệt đối."[93] Tạp chí Spin cũng dành cho Nevermind một bài đánh giá tích cực, nhận định: "Bạn sẽ ngân nga tất cả các ca khúc trong album này suốt đời – hoặc ít nhất là cho đến khi băng cassette/CD/đĩa nhạc của bạn mòn đến mức không thể nghe được nữa."[94] Trong khi đấy, tạp chí Select so sánh Nirvana với những cái tên huyền thoại như Jane's Addiction, Sonic Youth và Pixies cũng như khẳng định rằng: "Album này chứng minh Nirvana thực sự xứng đáng được xếp vào hàng ngũ danh giá đó."[89]
Không phải mọi bài đánh giá về tác phẩm đều hoàn toàn tích cực. Rolling Stone chấm album này 3/5 sao. Nhà phê bình Ira Robbins viết: "Dù Nirvana không thực sự khai mở điều gì hoàn toàn mới mẻ, Nevermind vẫn sở hữu những ca khúc, cá tính và tinh thần tự tin đủ để vượt xa việc chỉ là một bản làm lại những bản hit nặng đô vốn quen thuộc với sóng phát thanh đại học."[88] The Boston Globe thì tỏ ra dè dặt hơn. Nhà phê bình Steve Morse nhận xét: "Phần lớn Nevermind chỉ là thứ punk-pop rập khuôn từng được vô số nghệ sĩ từ Iggy Pop cho đến Red Hot Chili Peppers thực hiện trước đó rồi", bổ sung thêm rằng "ban nhạc dường như không có gì đáng để nói; họ chỉ lặp lại những lời lảm nhảm ngớ ngẩn phát ra từ ca sĩ kiêm người viết lời Cobain."[95]
Nevermind đã được bình chọn là album xuất sắc nhất năm trong cuộc thăm dò ý kiến giới phê bình Pazz & Jop do tạp chí The Village Voice tổ chức; "Smells Like Teen Spirit" cũng đồng thời đứng đầu ở hai hạng mục Đĩa đơn của năm và Video của năm.[96] Album chiếm ưu thế áp đảo trong bảng bình chọn, và nhà phê bình Robert Christgau của The Village Voice đã viết trong bài bình luận kèm theo kết quả khảo sát: "Nếu chỉ là một hiện tượng pop nho nhỏ, họ có thể đã gặt hái một chiến thắng vừa phải giống như De La Soul từng làm hồi năm 1990. Nhưng thay vào đó, thành công bùng nổ với nhiều đĩa bạch kim của Nirvana đã trở thành sự xác tín công khai toàn diện đầu tiên dành cho hệ giá trị của dòng nhạc indie Mỹ: sự ồn ào, những giai điệu lập dị và thái độ ngang tàng – những thứ mà một nửa giới phê bình bỏ phiếu trong Pazz & Jop đã lớn lên cùng."[97] Tại Anh Quốc, nhạc phẩm được NME xếp hạng nhất trong danh sách 50 LP xuất sắc nhất năm 1991.[98] Ngoài ra, Nevermind đã mang về cho ban nhạc ba đề cử Grammy tại lễ trao giải Grammy lần thứ 34 và 35, trong đó có hạng mục Album nhạc alternative xuất sắc nhất.[99]
Di sản
[sửa | sửa mã nguồn]Tác động văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]
Nevermind không chỉ góp phần làm lan tỏa phong trào grunge tại Seattle mà còn đưa thể loại alternative rock nói chung bước ra mainstream, qua đó khẳng định tính khả thi về mặt thương mại lẫn văn hóa của dòng nhạc này,[100] cũng như mở ra làn sóng bùng nổ alternative rock trong ngành công nghiệp âm nhạc.[101] Mặc dầu khoảng thời gian từ lúc album trình làng cho đến khi Cobain qua đời là tương đối ngắn ngủi, nhưng thành công vang dội ấy đã giúp Nirvana được giới truyền thông ca tụng là ban nhạc lớn nhất thế giới, đặc biệt trong suốt năm 1992.[102] Là một đại diện tiêu biểu của grunge, thành công của Nirvana trước những ban nhạc hair metal nổi tiếng lúc bấy giờ khiến nhiều người liên tưởng tới "Cuộc xâm lăng của nước Anh" vào nền âm nhạc đại chúng Mỹ hồi đầu thập niên 1960.[103] Tác phẩm cũng khơi dậy sự quan tâm trở lại đối với văn hóa punk trong giới thanh thiếu niên thuộc Thế hệ X.[104] Nhà báo Chuck Eddy nhận định rằng việc phát hành Nevermind có thể được xem như hồi chuông báo hiệu sự kết thúc của "kỷ nguyên album đỉnh cao".[105]
Cây bút William Goodman của Billboard đã hết lời ca ngợi album này, đặc biệt khi so sánh với âm nhạc và hình ảnh của các ban nhạc hair metal: "Thay vì hình mẫu ngôi sao nhạc rock khoe cơ bắp, hít cocaine, coi phụ nữ như món đồ chơi trong thập niên 80 – thì Cobain đã làm sống lại (hoặc tái định nghĩa) hình tượng nghệ sĩ nhạy cảm: một gã punk thông minh, hài hước, ủng hộ nữ quyền, chống lại quyền lực áp bức với nụ cười ngọt ngào và tâm hồn dịu dàng."[4] Trong phần bình luận đi kèm việc xếp Nevermind ở hạng 17 trong danh sách 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại năm 2003, Rolling Stone viết: "Không có album nào trong lịch sử đương đại tạo ra sức ảnh hưởng mãnh liệt đến thế đối với cả một thế hệ – một quốc gia của những thiếu niên bỗng chốc hóa thành punk – và đồng thời để lại hậu quả thảm khốc tới như vậy cho chính người sáng tạo nên nó."[106] Gary Gersh, người đã ký hợp đồng đưa Nirvana về Geffen Records, bổ sung thêm rằng: "Ngành công nghiệp âm nhạc có thể được chia thành trước và sau Nirvana... Nevermind đã chứng minh rằng đây không chỉ là một trào lưu alternative nhỏ bé diễn ra ở góc khuất nào đó của thị trường rồi biến mất. Đây chính là hiện thực."[107]
Album này đã tạo ra tác động to lớn đối với văn hóa giới trẻ. Goodman nhận định rằng Nevermind đã “kết liễu dòng nhạc hair metal và châm ngòi cho một cuộc cách mạng văn hóa toàn cầu".[4] Khi trả lời phỏng vấn BBC, nhà nghiên cứu văn hóa người Brazi Moyses Pinto bày tỏ rằng ông đã bị choáng ngợp bởi tác phẩm, chia sẻ: "Tôi đã nghĩ: ‘Thật hoàn hảo’; nó nghe như một sự tổng hòa rực rỡ giữa tiếng ồn và nhạc pop."[108] Tương tự, Kgomotso Neto cho biết tầm ảnh hưởng của Nirvana cùng với kênh truyền hình MTV trong thời kỳ Nevermind đã tạo nên một thế hệ thanh niên mới – những người nghe cùng một loại nhạc và ăn mặc giống nhau (tức thời trang grunge). Neto nói thêm rằng "đã xuất hiện một sự đồng nhất văn hóa chưa từng thấy trước đó" cũng như "văn hóa grunge nhanh chóng trở thành xu thế thống trị; tất cả những gì từng được xem là 'ngầu' bỗng nhiên trở nên xấu xí và lố bịch, và Kurt [Cobain] chính là biểu tượng của sự nổi loạn, phá vỡ quy chuẩn."[108] Trong cuốn tiểu sử Come as You Are: The Story of Nirvana (1993), Michael Azerrad lập luận rằng Nevermind đã đánh dấu một bước chuyển giao thế hệ mang tính thời đại trong âm nhạc, tương tự như sự bùng nổ của rock-and-roll hồi thập niên 1950, đồng thời kết thúc kỷ nguyên thống trị của Thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh trong nền âm nhạc đại chúng. Azerrad viết: "Nevermind xuất hiện đúng vào thời điểm lý tưởng nhất. Đây là thứ âm nhạc được viết bởi, dành cho, và nói về một thế hệ hoàn toàn mới – những người trẻ từng bị bỏ quên, phớt lờ hoặc coi thường."[109]
Thành công của Nevermind đã khiến các nghệ sĩ đương thời của Nirvana bất ngờ và họ cảm thấy mình hoàn toàn bị lu mờ bởi sức ảnh hưởng của tác phẩm. Thủ lĩnh ban nhạc Fugazi Guy Picciotto về sau chia sẻ: "So với tác động mà họ tạo ra, đĩa nhạc của chúng tôi chẳng khác gì một gã lang thang đi tè trong rừng ... Bọn tôi cảm thấy như thể mình đang chơi đàn ukulele vậy, bởi vì sự chênh lệch quá lớn về tầm ảnh hưởng giữa họ và chúng tôi."[110] Karen Schoemer của The New York Times viết rằng: Điều khác thường ở Nevermind là nó không chiều lòng cả khán giả đại chúng lẫn nhóm fan indie rock vốn đã ủng hộ album đầu tay của nhóm."[111] Năm 1992, Jon Pareles cũng của The New York Times mô tả tình hình sau cú nổ của album: “Đột nhiên, mọi dự đoán đều trở nên vô nghĩa. Không ai biết chắc trong hàng tá, thậm chí hàng trăm ban nhạc nổi loạn, bừa bộn, luộm thuộm thì nhóm nào sẽ là cái tên tiếp theo chinh phục được hàng triệu người bình dân đi dạo trong trung tâm thương mại." Các giám đốc hãng đĩa bắt đầu chi rất nhiều tiền để ký hợp đồng với hàng loạt ban nhạc cũng như bỏ qua chiến lược xây dựng cộng đồng fan từ từ cho các ban nhạc alternative, mà thay vào đó là tìm cách đưa họ đến với thị trường đại chúng càng nhanh càng tốt.[112]
Đánh giá lại
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá chuyên môn sau này | |
---|---|
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
AllMusic | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
The A.V. Club | A[114] |
Blender | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Christgau's Consumer Guide | A[116] |
The Daily Telegraph | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Pitchfork | 10/10[118] |
Q | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Rolling Stone | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
The Rolling Stone Album Guide | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Spin | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Nevermind tiếp tục nhận được lời khen ngợi từ giới phê bình và luôn được xếp hạng cao trong các danh sách album vĩ đại nhất mọi thời đại. Nhạc phẩm xếp thứ 17 trong danh sách 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại của Rolling Stone,[106] giữ nguyên vị trí này trong danh sách cập nhật năm 2012,[123] đồng thời vươn lên vị trí thứ 6 trong các bản sửa đổi năm 2020 và 2023.[124][125] Vào năm 2019, Rolling Stone cũng xếp Nevermind ở vị trí số một trong danh sách 100 album hay nhất thập niên 90, gọi đây là "album đã đảm bảo rằng thập niên 90 sẽ không nhàm chán."[126] Cùng năm, Nevermind giữ vị trí quán quân trong danh sách 50 album grunge vĩ đại nhất của Rolling Stone.[127] Tạp chí còn xếp album này ở vị trí thứ 10 trong danh sách 40 album punk vĩ đại nhất mọi thời đại.[128]
Vào năm 2001, VH1 đã tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến từ hơn 500 nhà báo, giám đốc âm nhạc và nghệ sĩ, trong đó đánh giá Nevermind là album vĩ đại thứ hai trong lịch sử rock 'n' roll chỉ sau Revolver của The Beatles.[129] Time đã đưa Nevermind, mà cây viết Josh Tyrangiel của tạp chí này gọi là "album tuyệt vời nhất của thập niên 90", vào danh sách 100 album vĩ đại nhất mọi thời đại (The All-TIME 100 Albums) năm 2006.[130] Pitchfork xướng tên tác phẩm ở vị trí thứ sáu trong danh sách album xuất sắc nhất thập niên 90 và nhận xét rằng: "Bất kỳ ai ghét bỏ album này ngày hôm nay đều chỉ đang cố tỏ ra ngầu, và họ cần phải cố gắng nhiều hơn nữa."[131] Năm 2004, Thư viện Quốc hội Mỹ đã đưa Nevermind vào Lưu trữ Thu âm Quốc gia , một danh mục lưu trữ những bản ghi âm "có ý nghĩa văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ" từ thế kỷ 20.[132] Ngược lại, Nevermind được bầu chọn là "Album bị thổi phồng nhất trên thế giới" (Most Overrated Album in the World) trong một cuộc khảo sát công khai của BBC vào năm 2005.[133] Rock Hard xếp album này hạng 88 trong danh sách 500 album rock và metal vĩ đại nhất mọi thời đại".[134] Vào năm 2006, độc giả của tạp chí Guitar World đã xếp Nevermind ở vị trí thứ 8 trong danh sách 100 bản thu âm guitar vĩ đại nhất (Greatest Guitar Recordings).[135] Entertainment Weekly xếp tác phẩm ở vị trí thứ 10 trong danh sách 100 album vĩ đại nhất mọi thời đại của họ vào năm 2013.[136] Nhạc phẩm đứng hạng 17 trong lần tái bản thứ ba của cuốn All Time Top 1000 Albums (1000 album vĩ đại nhất mọi thời đại, 2000) do Colin Larkin biên soạn.[137] Christgau đã đưa Nevermind vào danh sách 10 album hay nhất thập niên 90 và cho rằng nếu nhìn lại thì đây là một album đạt điểm A-plus.[138] Năm 2017, ca khúc "Smells Like Teen Spirit" được xướng danh vào Đại sảnh danh vọng Grammy.[139] Vào tháng 10 năm 2023, Official Charts Company tiết lộ rằng Nevermind là album được stream nhiều thứ tư trong số các đĩa nhạc ra mắt vào thập niên 1990 tại Anh Quốc.[140][141] Bước sang năm 2024, Paste Magazine xếp tác phẩm ở vị trí thứ 65 trong danh sách album vĩ đại nhất mọi thời đại.[142]
Tái phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1996, Mobile Fidelity Sound Labs đã phát hành Nevermind trên định dạng đĩa vinyl như một phần thuộc dòng sản phẩm ANADISQ 200, đồng thời cho ra mắt thêm phiên bản CD mạ vàng 24-karat. Bản CD có bổ sung thêm ca khúc ẩn "Endless, Nameless". Phiên bản đĩa vinyl nhanh chóng cháy hàng do số lượng giới hạn, trong khi bản CD thì vẫn tiếp tục được sản xuất đều đặn trong nhiều năm sau đó.[143] Sang năm 2009, Original Recordings Group phát hành Nevermind dưới dạng đĩa vinyl 180g với hai phiên bản: bản giới hạn màu xanh dương và bản thông thường màu đen. Tất cả đều được master và cắt âm bởi Bernie Grundman từ băng analog gốc.[144]
Đến tháng 9 năm 2011, nhân dịp kỷ niệm 20 năm Nevermind lên kệ, Universal Music Enterprises tung ra hai ấn bản đặc biệt: "Deluxe Edition" với 2 CD, "Super Deluxe Edition" gồm 4 CD và 1 DVD.[145] Đĩa đầu tiên trong cả hai bản đều chứa album gốc kèm theo các bản mặt B (các ca khúc thâu trong phòng thu lẫn biểu diễn trực tiếp). Đĩa thứ hai tập hợp các bản thu thử ban đầu, trong đó có những bản thu tại Smart Studio, một số buổi tập luyện được ghi lại bằng boombox và hai bản thu tại BBC. Riêng bản "Super Deluxe Edition" còn bao gồm bản phối gốc của Vig, cũng như CD và DVD ghi lại buổi diễn Live at the Paramount. Theo báo cáo của IFPI, các phiên bản tái phát hành nhân kỷ niệm 20 năm (2011) đã bán được gần 800.000 bản trên toàn cầu tính tới năm 2012.[146] Tháng 6 năm 2021, Novoselic tiết lộ rằng anh và Grohl đang cùng nhau biên soạn phiên bản kỷ niệm 30 năm của album.[147][148][149] Đến tháng 9 năm 2021, BBC Two ở Anh Quốc thông báo sẽ phát sóng bộ phim tài liệu có tựa đề When Nirvana Came to Britain nhằm kỷ niệm 30 năm phát hành album, với sự tham gia của Novoselic và Grohl.[150] Cùng tháng đó, phiên bản kỷ niệm 30 năm Nevermind chính thức được trình làng gồm hai định dạng: bộ 8 đĩa vinyl LP và bộ 5 đĩa CD. Ấn bản này chứa đến 70 bản thu trực tiếp chưa từng được công bố trước đây, riêng phiên bản CD còn đính kèm đĩa Blu-ray ghi lại buổi diễn Live in Amsterdam.[151]
Danh sách bài hát
[sửa | sửa mã nguồn]Tất cả lời bài hát được viết bởi Kurt Cobain[ghi chú 1]; tất cả nhạc phẩm được soạn bởi Cobain trừ những trường hợp được ghi chú khác.[ghi chú 2].
STT | Nhan đề | Sáng tác | Thời lượng |
---|---|---|---|
1. | "Smells Like Teen Spirit" | 5:01 | |
2. | "In Bloom" | 4:14 | |
3. | "Come as You Are" | 3:39 | |
4. | "Breed" | 3:03 | |
5. | "Lithium" | 4:17 | |
6. | "Polly" | 2:57 | |
7. | "Territorial Pissings" ([ghi chú 3]) | 2:22 | |
8. | "Drain You" | 3:43 | |
9. | "Lounge Act" | 2:36 | |
10. | "Stay Away" | 3:32 | |
11. | "On a Plain" | 3:16 | |
12. | "Something in the Way" | 3:52 | |
13. | "Endless, Nameless" (ca khúc ẩn[ghi chú 4]) |
| 6:43 |
Tổng thời lượng: | 49:07 |
Ghi chú
- ^ Cựu giọng ca chính của ban nhạc Screaming Trees Mark Lanegan từng khẳng định rằng anh đã có đóng góp vào phần lời bài hát "Something in the Way" nhưng không được ghi công chính thức.[152]
- ^ Trong bản phát hành đầu tiên của Nevermind, toàn bộ phần nhạc đều được ghi công cho Nirvana,[153] tuy nhiên các bản phát hành sau này đã có sự điều chỉnh về phần ghi nhận tác giả.
- ^ Phần mở đầu của "Territorial Pissings" có đoạn Novoselic hát điệp khúc bài "Get Together" của ban nhạc The Youngbloods do Chet Powers sáng tác.[154]
- ^ Điều khiến Cobain bức xúc là ca khúc ẩn "Endless, Nameless" đã bị bỏ sót trong lô đĩa CD phát hành đầu tiên; sau đó anh yêu cầu phải bổ sung bài hát nói trên đúng như ý định ban đầu. Kể từ những lần tái bản sau, "Endless, Nameless" xuất hiện sau khoảng 10 phút im lặng nối tiếp "Something in the Way", khiến bài thứ 12 có tổng thời lượng lên tới 20:35. Tuy vậy, ca khúc ẩn này vẫn không được đưa vào các phiên bản đĩa vinyl.
Đội ngũ sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Đội ngũ tham gia sản xuất Nevermind được lấy từ phần ghi chú trong album[153] [153]
Nirvana
Nhạc sĩ bổ sung
|
Nhân sự kỹ thuật và thiết kế bìa album
|
Bảng xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Bảng xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Bảng xếp hạng cuối thập niên
[sửa | sửa mã nguồn]Bảng xếp hạng (1990–1999) | Vị trí |
---|---|
Hoa Kỳ Billboard 200[337] | 32 |
Bảng xếp hạng (2010–2019) | Vị trí |
---|---|
Album Vinyl Anh Quốc (OCC)[338] | 9 |
Chứng nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Argentina (CAPIF)[339] | 3× Bạch kim | 180.000^ |
Úc (ARIA)[340] | 5× Bạch kim | 350.000^ |
Áo (IFPI Áo)[341] | Bạch kim | 50.000* |
Bỉ (BEA)[342] | 8× Bạch kim | 400.000‡ |
Brasil (Pro-Música Brasil)[343] | Bạch kim | 250.000* |
Canada (Music Canada)[344] | Kim cương | 1.000.000^ |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[345] | 6× Bạch kim | 120.000‡ |
Phần Lan (Musiikkituottajat)[346] | Vàng | 46,830[346] |
Pháp (SNEP)[347] | Kim cương | 1.000.000* |
Đức (BVMI)[348] | 2× Bạch kim | 1.000.000^ |
Iceland (FHF)[349] | Bạch kim | 5,000[350] |
Ý (FIMI)[351] doanh số từ năm 2009 |
4× Bạch kim | 200.000‡ |
Nhật Bản (RIAJ)[352] | 3× Bạch kim | 600.000^ |
México (AMPROFON)[353] | 2× Vàng | 200.000^ |
Hà Lan (NVPI)[354] | Bạch kim | 100.000^ |
New Zealand (RMNZ)[355] | 7× Bạch kim | 105.000^ |
Ba Lan (ZPAV)[356] bản phát hành của BMG |
Bạch kim | 100.000* |
Ba Lan (ZPAV)[357] bản phát hành của Geffen/Universal Music |
3× Bạch kim | 120.000‡ |
Bồ Đào Nha (AFP)[358] | Bạch kim | 40.000^ |
Singapore | — | 35.000[359] |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[360] | Bạch kim | 100.000^ |
Thụy Điển (GLF)[361] | 2× Bạch kim | 200.000^ |
Thụy Sĩ (IFPI)[362] | Bạch kim | 50.000^ |
Anh Quốc (BPI)[363] | 9× Bạch kim | 2.700.000‡ |
Hoa Kỳ (RIAA)[364] | 13× Bạch kim | 13.000.000‡ |
Tổng hợp | ||
Toàn cầu | — | 30.000.000[80] |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ "Live Nirvana | Sessions History | Studio Sessions | May 2–28, 1991 - Sound City Studios, Van Nuys & Devonshire Studios, Burbank, CA, US". Livenirvana.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.
- ^ "This Day in Music Spotlight: Nirvana Begins Recording 'Nevermind'". .gibson.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2014.
- ^ Borzillo-Vrenna, Carrie (2003). Nirvana - The Day to Day Illustrated Journals (ấn bản thứ 1). Barnes & Noble. tr. 71. ISBN 0-7607-4893-4.
- ^ a b c Goodman, William (ngày 23 tháng 9 năm 2016). "Nirvana's 'Nevermind' Turns 25: Classic Track-by-Track Review". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2022.
- ^ School, GABRIELLE ZEVIN, Spanish River High (ngày 14 tháng 2 năm 1992). "NIRVANA'S 'NEVERMIND' UNCONVENTIONAL HEAVY METAL". Sun-Sentinel.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2020.
{{Chú thích web}}
: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) - ^ a b c d e f g h i Classic Albums—Nirvana: Nevermind [DVD]. Isis Productions, 2004.
- ^ a b c Hoi, Tobias. "In Bloom". Guitar World. Tháng 10 năm 2001. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “hoi” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ "Live Nirvana – Sessions History – Studio Sessions – April 2–6, 1990 – Studio A, Smart Studios, Madison, WI, US". www.livenirvana.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 29
- ^ Azerrad, 1993. tr. 137
- ^ "Club Underground Show Flyer Live Nirvana". Nirvanaguide.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.[liên kết hỏng]
- ^ Nirvana - 04/07/90 - (Interview) WORT Radio Studio, Madison, WI. YouTube. 6 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2023.
- ^ "Nirvana Live Guide – 1990". www.nirvanaguide.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2017.
- ^ a b Azerrad, 1993. tr. 138
- ^ Azerrad, 1993. tr. 162
- ^ Azerrad, 1993. tr. 164–65
- ^ a b c d Cross, Charles R. "Requiem for a Dream". Guitar World. Tháng 10 năm 2001. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “requiem” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 29
- ^ Azerrad 1993, tr. 137
- ^ Azerrad 1993, tr. 138
- ^ Azerrad 1993, tr. 164–65
- ^ Sandford 1995, tr. 181
- ^ Azerrad 1993, tr. 167
- ^ Azerrad 1993, tr. 169
- ^ a b Azerrad 1993, tr. 174
- ^ Azerrad 1993, tr. 176
- ^ di Perna, Alan. "Grunge Music: The Making of Nevermind". Guitar World. Mùa thu, 1996.
- ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 96
- ^ a b Azerrad 1993, tr. 179–80
- ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 99
- ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 102
- ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 103
- ^ Berkenstadt & Cross 1998, tr. 104
- ^ Lewis, Luke. "Nirvana – Nevermind". Q: Nirvana and the Story of Grunge. Tháng 12 năm 2005.
- ^ di Perna, Alan. "Absolutely Foobulous!" Guitar World. Tháng 8 năm 1997.
- ^ "Cobainspotting". Guitar World. Tháng 10 năm 2001.
- ^ Cross 2001, tr. 182
- ^ Cross 2001, tr. 168–69
- ^ Morris, Chris. "The Year's Hottest Band Can't Stand Still." Musician, tháng 1 năm 1992.
- ^ Bachor, Kenneth (ngày 23 tháng 9 năm 2016). "The Baby From Nirvana's Nevermind Is 25 Now". Time. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2017.
- ^ Azerrad 1993, tr. 180–81
- ^ "Readers Poll: The Best Album Covers of All Time". Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 15 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
- ^ Jonze, Tim (ngày 6 tháng 6 năm 2019). "Kirk Weddle's best photograph: Nirvana's Nevermind swimming baby". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2021.
- ^ "Live Nirvana | Photo History | 1991 | October 28, 1991 - Van Nuys, CA, US". www.livenirvana.com. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2025.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 108
- ^ Azerrad 1993, p. 209
- ^ "Tough Questions for 'Weird Al' Yankovic". Spin.com. ngày 24 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.
- ^ "Spencer Elden, the baby from Nirvana's Nevermind album cover, sues alleging child exploitation". ABC News. Australian Broadcasting Corporation. ngày 25 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
- ^ Gray, Geordie (ngày 25 tháng 8 năm 2020). "Nirvana sued by the baby from 'Nevermind' for child pornography". Tone Deaf. Brag Media. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
- ^ Minsker, Evan (ngày 24 tháng 8 năm 2021). "Nirvana Sued by Baby From Nevermind Album Artwork for Child Pornography". Pitchfork. Condé Nast. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
- ^ DeVille, Chris (ngày 24 tháng 8 năm 2020). "The Nevermind Baby Sues Nirvana, Calling The Album Cover Child Pornography". Stereogum. Scott Lapatine. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
- ^ "Man Photographed as Baby on 'Nevermind' Cover Sues Nirvana, Alleging Child Pornography". www.yahoo.com (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
- ^ "Elden vs Nirvana Complaint". www.documentcloud.org (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2021.
- ^ "Legal experts trash 'child porn' claim over Nirvana 'Nevermind' album cover". New York Post (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2021.
- ^ Beaumont-Thomas, Ben (ngày 24 tháng 12 năm 2021). "Nirvana seek to dismiss sexual abuse lawsuit concerning Nevermind cover". The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2021.
- ^ "Nirvana Nevermind baby cover artwork lawsuit dismissed". The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Nirvana baby refiles lawsuit over Nevermind album cover". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2022.
- ^ Donahue, Bill (ngày 21 tháng 12 năm 2023). "Nirvana Must Face Child Porn Lawsuit Over Naked Baby On 'Nevermind' Album Cover, Appeals Court Rules". Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Gold & Platinum". RIAA (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
- ^ Azerrad 1993, tr. 196
- ^ a b Berkenstadt; Cross, tr. 113
- ^ Azerrad 1993, tr. 227
- ^ Wice, Nathaniel. "How Nirvana Made It". Spin. Tháng 4 năm 1992.
- ^ Azerrad 1993, tr. 193
- ^ Azerrad 1993, tr. 198
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 119
- ^ Azerrad 1993, tr. 199
- ^ "The Songs That Shaped Rock and Roll". Rock and Roll Hall of Fame. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ Azerrad 1993, tr. 203
- ^ Azerrad 1993, tr. 228
- ^ Azerrad 1993, tr. 203
- ^ Azerrad 1993, tr. 229
- ^ "The Pop Life; Nirvana's 'Nevermind' Is No. 1". The New York Times. ngày 8 tháng 1 năm 1992. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2019.
- ^ "January 11, 1992". Billboard 200.
- ^ Nirvana – Awards Lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2017 tại Wayback Machine". AllMusic. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Nirvana – Artist Chart History Lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2013 tại Wayback Machine". Official Charts Company. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013.
- ^ RIAA Searchable Database Lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2007 tại Wayback Machine. RIAA.com. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2007. Người dùng cần nhập "Nirvana" vào phần "Artist" (Nghệ sĩ) rồi nhấp vào "search" (tìm kiếm).
- ^ Gold & Platinum – March 2001 Lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2010 tại Wayback Machine. CRIA.ca. Tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2007.
- ^ Certified Award Search – Nirvana – Nevermind Lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2013 tại Wayback Machine. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Anh. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011. Người dùng cần nhập từ khóa "Nirvana" vào ô "Search" (Tìm kiếm), chọn "Artist" (Nghệ sĩ) trong mục "Search by" (Tìm theo) rồi nhấn "Go" (Đi đến)."Unknown". Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011.
- ^ a b "Friday essay: Nevermind 30 years on – how Nirvana's second album tilted the world on its axis". Theconversation.com. ngày 16 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.
- ^ Corcoran, Michael (ngày 13 tháng 10 năm 1991). "Robertson lacks happy ending for 'Storyville'". Chicago Sun-Times. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
- ^ Kot, Greg (ngày 10 tháng 10 năm 1991). "Nirvana: Nevermind (DGC)". Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
- ^ a b Browne, David (ngày 25 tháng 10 năm 1991). "Nirvana's 'Nevermind': EW Review". Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2009.
- ^ Gitter, Mike (ngày 21 tháng 9 năm 1991). "Mind over splatter". Kerrang!. Số 359. tr. 22.
- ^ Gold, Jonathan (ngày 6 tháng 10 năm 1991). "Power Trio, Pop Craft". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
- ^ Lamacq, Steve (ngày 21 tháng 9 năm 1991). "Nevermind – The Bollocks!". NME. tr. 36. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
- ^ King, Sam (tháng 11 năm 1991). "Nirvana: Nevermind". Q. Số 62. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2000. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ a b Robbins, Ira (ngày 28 tháng 11 năm 1991). "Nirvana: Nevermind". Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.
- ^ a b Perry, Andrew (tháng 10 năm 1991). "Nirvana: Nevermind". Select. Số 16. tr. 68.
- ^ Christgau, Robert (ngày 5 tháng 11 năm 1991). "Consumer Guide". The Village Voice. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 116-117
- ^ Schoemer, Karen (ngày 27 tháng 9 năm 1991). "Pop/Jazz; A Band That Deals In Apathy". The New York Times. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2007.
- ^ True, Everett. Nirvana: The Biography. Da Capo Press, 2007. ISBN 978-0-306-81554-6. tr. 233.
- ^ Spencer, Lauren (tháng 12 năm 1991). "Nirvana: Nevermind". Spin. Quyển 7 số 9. tr. 112. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 117
- ^ "The 1991 Pazz & Jop Critics Poll". The Village Voice. ngày 3 tháng 3 năm 1992. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ Christgau, Robert (ngày 3 tháng 3 năm 1992). "Reality Used to Be a Friend of Ours". The Village Voice. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
- ^ "NME's Fifty Best LPs of 1991". NME. ngày 21 tháng 12 năm 1991. tr. 56. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2022.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênGrammys
- ^ Olsen, Eric. "10 years later, Cobain lives on in his music" Lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2013 tại Wayback Machine. MSNBC 9 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2007.
- ^ Hogan, Marc (ngày 20 tháng 3 năm 2017). "Exit Music: How Radiohead's OK Computer Destroyed the Art-Pop Album in Order to Save It". Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
- ^ "My Time with Kurt Cobain". The New Yorker (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2022.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênCongress
- ^ "How Nirvana Made 'Nevermind'". Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2020.
- ^ Eddy, Chuck (2011). Rock and Roll Always Forgets: A Quarter Century of Music Criticism. Duke University Press. tr. 283. ISBN 978-0-82235010-1. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
- ^ a b 17: Nevermind – Nirvana Lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2013 tại Wayback Machine. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
- ^ Pareles, Jon (ngày 14 tháng 11 năm 1993). "Nirvana, the Band That Hates to Be Loved: The Band That Hates to Be Loved". The New York Times. ProQuest 109121712.
- ^ a b Haider, Arwa (ngày 23 tháng 9 năm 2021). "Nevermind at 30: How the Nirvana album shook the world" (bằng tiếng Anh). BBC News. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2022.
- ^ Azerrad 1993, tr. 225
- ^ Azerrad, 2001. tr. 493
- ^ Schoemer, Karen (ngày 26 tháng 1 năm 1992). "The Art Behind Nirvana's Ascent to the Top: Not many bands come up from the underground to hit No. 1 as fast as this Seattle trio – or make so few musical concessions". The New York Times. ProQuest 108871606.
- ^ Pareles, Jon. Pop View; Nirvana-bes Awaiting Fame's Call". The New York Times. 14 tháng 6 năm 1992. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ Erlewine, Stephen Thomas. "Nevermind – Nirvana". AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
- ^ Hyden, Steven (ngày 27 tháng 9 năm 2011). "Nirvana: Nevermind". The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Wolk, Douglas (tháng 4 năm 2008). "Nirvana: Nevermind". Blender. Quyển 7 số 3. tr. 88. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2022.
- ^ Christgau, Robert (2000). "Nirvana: Nevermind". Christgau's Consumer Guide: Albums of the '90s. St. Martin's Griffin. tr. 227. ISBN 0-312-24560-2. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
- ^ McCormick, Neil (ngày 22 tháng 9 năm 2011). "Nirvana: Nevermind (20th Anniversary Edition), CD review". The Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Harvell, Jess (ngày 27 tháng 9 năm 2011). "Nirvana: Nevermind [20th Anniversary Edition]". Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Segal, Victoria (tháng 10 năm 2011). "Nirvana: Nevermind". Q. Số 303. tr. 133.
- ^ Rosen, Jody (ngày 27 tháng 9 năm 2011). "Nevermind 20th Anniversary". Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ Young, Charles M. (2004). "Nirvana". Trong Brackett, Nathan; Hoard, Christian (biên tập). The New Rolling Stone Album Guide (ấn bản thứ 4). Simon & Schuster. tr. 588–589. ISBN 0-743-20169-8.
- ^ Dolan, Jon (tháng 8 năm 2006). "How to Buy: Heavy Metal". Spin. Quyển 22 số 8. tr. 78. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.
- ^ "500 Greatest Albums of All Time Rolling Stone's definitive list of the 500 greatest albums of all time". Rolling Stone. 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
- ^ "The 500 Greatest Albums of All Time (2020 Edition)". Rolling Stone. ngày 22 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2020.
- ^ "The 500 Greatest Albums of All Time (2023 Edition)". Rolling Stone. ngày 31 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
- ^ 1: Nevermind – Nirvana Lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại Wayback Machine. Rolling Stone. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ "50 Greatest Grunge Albums". Rolling Stone. ngày 1 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- ^ "40 Greatest Punk Albums of All Time". Rolling Stone. ngày 6 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2019.
- ^ "Beatles' 'Revolver' judged best album". Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2004. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
- ^ Tyrangiel, Josh. "Nevermind by Nirvana" . Time. 13 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
- ^ "Top 100 Albums of the 1990s" Lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2009 tại Wayback Machine. Pitchfork.com. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
- ^ Nhóm nhân viên MTV News. "For The Record: Quick News On Gwen Stefani, Pharrell Williams, Ciara, 'Dimebag' Darrell, Nirvana, Shins & More" Lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2008 tại Wayback Machine. MTV. 6 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
- ^ "Most Overrated Album in the World". BBC 6 Music. 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2017.
{{Chú thích web}}
: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Rensen, Michael (2005). "Nevermind". Trong Rensen, Michael (biên tập). Best of Rock & Metal - Die 500 stärksten Scheiben aller Zeiten [The 500 Greatest Albums of All Time] (bằng tiếng Đức). Rock Hard. tr. 188–189. ISBN 3-89880-517-4. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
- ^ "100 Greatest Guitar Albums". Guitar World. Tháng 10 năm 2006.
- ^ "Music: 10 All-Time Greatest." Lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015 tại Wayback Machine Entertainment Weekly. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
- ^ Colin Larkin, biên tập (2006). All Time Top 1000 Albums (ấn bản thứ 3). Virgin Books. tr. 42. ISBN 0-7535-0493-6.
- ^ Christgau, Robert (ngày 19 tháng 5 năm 2021). "Xgau Sez: May, 2021". And It Don't Stop. Substack. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021.
- ^ "Nirvana". GRAMMY.com (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
- ^ Ainsley, Helen (ngày 6 tháng 10 năm 2023). "BBC Radio 2 announces the Official Most Streamed 90s Albums Chart for National Album Day". Official Charts Company. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2023.
- ^ KA (ngày 7 tháng 10 năm 2023). "Oasis win the Streaming Chart Battle of the 1990s as BBC Radio 2 announces the Official Most Streamed 90s Albums Chart for National Album Day". BBC Online. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2023.
- ^ Paste Staff (ngày 3 tháng 6 năm 2024). "The 300 Greatest Albums of All Time". Paste.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 148–49
- ^ "Nevermind and Original Recordings Group Lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2013 tại Wayback Machine". Stereophile.com.
- ^ "Deluxe Edition of Nirvana's Nevermind Coming Out This Year" Lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2011 tại Wayback Machine. UpVenue.com. 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2011.
- ^ "New Nirvana footage helps drive interest" (PDF). Recording Industry in Numbers - The Recorded Music Market in 2011. IFPI. 2012. tr. 19. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2021.
- ^ Richards, Will (ngày 16 tháng 6 năm 2021). "Nirvana's Krist Novoselic teases 'Nevermind' 30th anniversary reissue". NME. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2021.
- ^ Carter, Emily (ngày 17 tháng 6 năm 2021). "Nirvana: Krist Novoselic hints at 30th anniversary reissue of Nevermind". Kerrang!. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2021.
- ^ "Nirvana Nevermind 30th Anniversary Album Review". Rabbit Hole Music. ngày 18 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2021.
- ^ "BBC Music to mark 30 years since the release of Nirvana's Nevermind". BBC Online. ngày 3 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2021.
- ^ Kreps, Daniel (ngày 23 tháng 9 năm 2021). "Nirvana Pack 'Nevermind' 30th-Anniversary Reissue With 4 Unreleased Concerts". Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
- ^ Prato, Greg (ngày 15 tháng 2 năm 2023). Lanegan. tr. 182–183.
NICK OLIVERI: Mark said he wrote some lyrics on "Something in the Way" with Kurt on Nevermind. But Kurt had played on some of Mark's solo stuff, The Winding Sheet. So, instead of getting paid, they just did this thing where, "Hey man, I added a lyric on your song and you added a lyric on my song. Let's just call it even. Whatever happens, happens." Little did Mark know, if he would have had publishing on "Something in the Way" on Nevermind, he would have had a lot of money. I remember him kicking himself in the butt a little bit about that – "If I had that 'Something in the Way' publishing…
- ^ a b c Nevermind (CD liner notes). Nirvana. DGC. 1991.
{{Chú thích ghi chú album}}
: Quản lý CS1: tham số others trong cite AV media (liên kết) Lỗi chú thích: Thẻ<ref>
không hợp lệ: tên “linernotes” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ Golsen, Tyler (ngày 1 tháng 8 năm 2022). "The Nirvana song that references a hippie classic". Far Out. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023.
- ^ "Australiancharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "ARIA Top 20 Alternative Charts". ARIA Report. Số 105. ngày 26 tháng 1 năm 1992. tr. 11. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
- ^ "Austriancharts.at – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Top Ten Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 22 tháng 2 năm 1992. tr. 18. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2021.
- ^ "Top Ten Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 29 tháng 2 năm 1992. tr. 34. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2021.
- ^ "Discos mas populares de Latinoamerica". El Siglo de Torreón. UPI. ngày 3 tháng 2 năm 1993. tr. 43. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ "Top RPM Albums: Issue 2071". RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ "Hits of the World - Canada" (PDF). Billboard. ngày 14 tháng 3 năm 1992. tr. 53. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2023.
- ^ "Hits of the World - Canada" (PDF). Billboard. ngày 21 tháng 3 năm 1992. tr. 59. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2023.
- ^ "Top 10 Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 22 tháng 2 năm 1992. tr. 18. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2019.
- ^ "Dutchcharts.nl – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "European Top 100 Albums" (PDF). Music & Media. ngày 11 tháng 4 năm 1992. tr. 23. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2018.
- ^ Pennanen, Timo (2003). Sisältää hitin: levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972 Lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2016 tại Wayback Machine. Otava Publishing Company Ltd. ISBN 951-1-21053-X.
- ^ "InfoDisc : Le Détail des Albums de chaque Artiste" Lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại Wayback Machine. Infodisc.fr. Retrieved on October 14, 2012. NB user has to select "Nirvana" from the drop down list and click "OK".
- ^ "Offiziellecharts.de – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Top Ten Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 7 tháng 3 năm 1992. tr. 18. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Album Top 40 slágerlista – 1992. 19. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Top 10 Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 29 tháng 2 năm 1992. tr. 34. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
- ^ Rocco, John; Rocco, Brian, biên tập (1998). "Chronology". The Nirvana Companion: Two Decades of Commentary: A Chronicle of The End of Punk. London: Omnibus Press. tr. 243. ISBN 0711969957. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2024.
- ^ "M & D". musicaedischi.it (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2023.
User must do a "albums" search for "Nirvana"
- ^ "ニルヴァーナ にるばーな" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
- ^ "Charts.nz – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Norwegiancharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Top 10 Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 10 tháng 10 năm 1992. tr. 26. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2021.
- ^ Kimberley, Christopher (1997). South Africa Chart Book. tr. 103. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2025.
- ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản thứ 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
- ^ "Swedishcharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Swisscharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Top 10 Sales in Europe" (PDF). Music & Media. ngày 15 tháng 2 năm 1992. tr. 26. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
- ^ "Nirvana | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Nirvana Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ Kimberley, Christopher (1998). Albums chart book: Zimbabwe. tr. 46. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2019.
- ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2015.
- ^ "Nirvana Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
- ^ "Ultratop.be – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2020.
- ^ "Nirvana Chart History (Top Rock Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
- ^ "Lista prodaje 18. tjedan 2021. (26.04.2021. - 02.05.2021.)" (bằng tiếng Croatia). Top Lista HR. ngày 9 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
- ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.
- ^ "Nirvana Chart History (Top Rock Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2021.
- ^ "Nirvana - Greece Albums". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Ultratop.be – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Danishcharts.dk – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Nirvana: Nevermind" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Lescharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Nirvana – Greece Albums". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2020.
- ^ "Italiancharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "ネヴァーマインド<スーパー・デラックス・エディション>" Lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2012 tại Wayback Machine. Oricon.co.jp. Retrieved on April 18, 2012.
- ^ "Portuguesecharts.com – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
- ^ "Nirvana Official UK Charts History". officialcharts.com. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
- ^ "Nirvana Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
- ^ "Nirvana Chart History (Top Catalog Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Nirvana Chart History (Top Rock Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
- ^ "RPM 100 Albums (CDs & Cassettes) of 1991". RPM. ngày 21 tháng 12 năm 1991. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014.
- ^ a b "Complete UK Year-End Album Charts". Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ "ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1992". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
- ^ "Jahreshitparade 1992". Hung Medien (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ "The RPM Top 100 Albums of 1992" (PDF). RPM. Quyển 56 số 25. ngày 19 tháng 12 năm 1992. tr. 13. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2019.
- ^ "Jaaroverzichten – Album 1992" (bằng tiếng Hà Lan). dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
- ^ "1992 Year-End Sales Charts" (PDF). Music & Media. ngày 19 tháng 12 năm 1992. tr. 17. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
- ^ "Les Albums (CD) de 1992 par InfoDisc". InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
- ^ "Top 100 Album-Jahrescharts". GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2015.
- ^ "Top Selling Albums of 1992". Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
- ^ "Schweizer Jahreshitparade 1992" (ASP). Hung Medien (bằng tiếng Đức). Swiss Music Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ "Billboard 200 Albums - Year-End 1992". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Top 100 Albums 1993" (PDF). Music Week. ngày 15 tháng 1 năm 1994. tr. 25. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2022.
- ^ "The ARIA Australian Top 100 Albums 1994". Australian Record Industry Association Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2022.
- ^ "Jaaroverzichten – Album 1994" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
- ^ "Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 1994r" (bằng tiếng Ba Lan). Z archiwum...rocka. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
- ^ "1994: Billboard 200 Albums". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
- ^ "ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1995". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
- ^ "Rapports annueles 1995" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
- ^ "Top Albums/CDs – Volume 62, No. 20, December 18 1995". RPM. ngày 18 tháng 12 năm 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
- ^ "End of Year Album Chart Top 100 – 1995". Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2015.
- ^ "1995: Billboard 200 Albums". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
- ^ "ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1996". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
- ^ "Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 1998r" (bằng tiếng Ba Lan). Z archiwum...rocka. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 1999r" (bằng tiếng Ba Lan). Z archiwum...rocka. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
- ^ "The Official UK Albums Chart 2001" (PDF). UKChartsPlus. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
- ^ "Canada's Top 200 Alternative albums of 2002". Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2022.
- ^ "Top 100 Metal Albums of 2002". Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2022.
- ^ "UK Year-End Charts 2002" (PDF). UKChartsPlus. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
- ^ "Jaaroverzichten 2005 - Mid price" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Rapports Annuels 2005 - Mid price" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "The Official UK Albums Chart - Year-End 2005" (PDF). UKchartsplus.co.uk. Official Charts Company. tr. 5. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
- ^ "Jaaroverzichten 2006 - Mid price" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Rapports Annuels 2006 - Mid price" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Rapports Annuels 2009 – Mid price" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Jaaroverzichten 2011 - Mid price" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Rapports Annuels 2011 - Mid price" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Top 100 – annual chart – 2011". Polish Society of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
- ^ "Classifiche annuali Fimi-GfK: Vasco Rossi con "Vivere o Niente" e' stato l'album piu' venduto nel 2011" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. ngày 16 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021. Click on "Scarica allegato" to download the zipped file containing the year-end chart files.
- ^ The Official Top 40 biggest selling vinyl albums and singles of 2012 Lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2021 tại Wayback Machine officialcharts.com. January 23, 2012.
- ^ "End of Year Charts: 2011" (PDF). UKChartsPlus. tr. 8. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2018.
- ^ "Jaaroverzichten 2012 - Mid price" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "Rapports Annuels 2012 - Mid price" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ "El álbum más vendido durante 2013 en Argentina: "Violetta – Hoy somos más"" (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ "ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 2015". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
- ^ "Classifiche "Top of the Music" 2015 FIMI-GfK: La musica italiana in vetta negli album e nei singoli digitali" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2016.
- ^ Official Biggest Vinyl Singles and Albums of 2015 revealed Lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2016 tại Wayback Machine officialcharts.com. January 13, 2016.
- ^ "Top of the Music – FIMI/GfK: Le uniche classifiche annuali complete" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
- ^ "W 2016 roku najlepiej sprzedającym się albumem było "Życie po śmierci" O.S.T.R." 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2016.
- ^ The Official Top 40 biggest selling vinyl albums and singles of 2016 Lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2017 tại Wayback Machine officialcharts.com. January 1, 2017.
- ^ "Top Billboard 200 Albums – Year-End 2016". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2020.
- ^ "Jahreshitparade Alben 2017" (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
- ^ "Classifica annuale 2017 (dal 30.12.2016 al 28.12.2017)" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
- ^ The Official Top 40 biggest selling vinyl albums and singles of 2017 Lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2018 tại Wayback Machine officialcharts.com. January 10, 2018.
- ^ "Top Billboard 200 Albums – Year-End 2017". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2017". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2021.
- ^ "2018 ARIA Vinyl Albums Chart". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
- ^ "Ö3 Austria Top 40 Jahrescharts 2018: Longplay". Ö3 Austria Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2018.
- ^ "Classifiche Annuali Top of the Music FIMI/GfK 2018: Protagonista La Musica Italiana" (Download the attachment and open the albums file) (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. ngày 7 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2021.
- ^ "TOP AFP 2018" (PDF). Associação Fonográfica Portuguesa (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Audiogest. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ "The Official Top 40 biggest vinyl albums and singles of 2018". officialcharts.com. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2019.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2018". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2020.
- ^ "2019 ARIA Vinyl Albums Chart". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
- ^ "Jaaroverzichten 2019". Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
- ^ "Rapports Annuels 2019". Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
- ^ "Top of the Music FIMI/GfK 2019: Un anno con la musica Italiana" (Download the attachment and open the Album file) (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
- ^ "Top AFP – Audiogest – Top 3000 Singles + EPs Digitais" (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
- ^ "The Official Top 40 biggest vinyl albums and singles of 2019". officialcharts.com. ngày 2 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
- ^ "Top Billboard 200 Albums – Year-End 2019". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2020.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2019". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2021.
- ^ "2020 ARIA Vinyl Albums Chart". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
- ^ "Jahreshitparade Alben 2020" (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
- ^ "Jaaroverzichten 2020". Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
- ^ "Rapports Annuels 2020". Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
- ^ "Inozemna izdanja – Godišnja lista 2020" [Foreign editions – Annual list 2020] (bằng tiếng Croatia). HDU. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2021.
- ^ "Top Of The Music 2020: 'Persona' Di Marracash È L'album Piú Venduto" (Download the attachment and open the albums file) (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. ngày 7 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2021.
- ^ "The Official Top 40 biggest vinyl albums and singles of 2020". officialcharts.com. ngày 6 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
- ^ "Top Billboard 200 Albums – Year-End 2020". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2020". Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2020.
- ^ "2021 ARIA Vinyl Albums Chart". Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Jahreshitparade Alben 2021" (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Jaaroverzichten 2021" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Rapports annuels 2021" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Top 100 Album-Jahrescharts 2021" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2022.
- ^ Griffiths, George (ngày 9 tháng 1 năm 2022). "Ireland's official biggest albums of 2021". Official Charts Company. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Classifica annuale 2021 (dal 01.01.2021 al 30.12.2021)" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Top Selling Albums of 2021". Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2022.
- ^ "sanah podbija sprzedaż fizyczną w Polsce" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Society of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ "Top 100 Álbuns - Semanas 1 a 52 – De 01/01/2021 a 30/12/2021" (PDF). Audiogest (bằng tiếng Bồ Đào Nha). tr. 1. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2022.
- ^ "End of Year Album Chart Top 100 – 2021". Official Charts Company. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Top Billboard 200 Albums – Year-End 2021". Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
- ^ "Catalog Albums – Year-End 2021". Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2021.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2021". Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
- ^ IFPI Brandle, Lars (ngày 1 tháng 3 năm 2022). "Adele's '30' Dominates IFPI's 2021 Album Charts". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2022.
- ^ "ARIA Top 100 Albums Chart for 2022". Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Ö3 Austria Top40 Jahrescharts 2022" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Jaaroverzichten 2022" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Rapports annuels 2022" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Jaaroverzichten – Album 2022". dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Offizielle Deutsche Jahrescharts: "Layla" ist erfolgreichster Hit 2022, Rammstein räumen bei den Alben ab" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. ngày 8 tháng 12 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2022.
- ^ "Összesített album- és válogatáslemez-lista - eladási darabszám alapján - 2022" (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2023.
- ^ "TÓNLISTINN – PLÖTUR – 2022" (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
- ^ "Top of the Music 2022: Un anno di musica italiana" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2023.
- ^ "2022 metų klausomiausi (Top 100)" (bằng tiếng Litva). AGATA. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2023.
- ^ "Top Selling Albums of 2022". Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2022.
- ^ "OLiS 2022 – roczne podsumowanie sprzedaży płyt na nośnikach fizycznych" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2023.
- ^ "Top 100 Álbuns - Semanas 1 a 52 – De 31/12/2021 a 29/12/2022" (PDF). Audiogest (bằng tiếng Bồ Đào Nha). tr. 1. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2023.
- ^ "Schweizer Jahreshitparade 2022". hitparade.ch (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2022.
- ^ "End of Year Album Chart Top 100 – 2022". Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Billboard 200 Albums – Year-End 2022". Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2022.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2022". Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2022.
- ^ "ARIA Top 100 Albums Chart for 2023". Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
- ^ "Jaaroverzichten 2023" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
- ^ "Rapports annuels 2023" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
- ^ "Jaaroverzichten – Album 2023". dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
- ^ "Album Top 100 - digitális és fizikai értékesítés alapján - 2023" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2024.
- ^ "TÓNLISTINN – PLÖTUR – 2023" (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
- ^ "Schweizer Jahreshitparade 2023" (bằng tiếng Đức). Schweizer Hitparade. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2023.
- ^ [https://web.archive.org/web/20240111000345/https://www.officialcharts.com/chart-news/the-official-best-selling-vinyl-albums-and-singles-of-2023/ Lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2024 tại Wayback Machine officialcharts.com. 12 tháng 1 năm 2024.
- ^ "Billboard 200 Albums – Year-End 2023". Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2023.
- ^ "Top Rock Albums – Year-End 2023". Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2023.
- ^ "ARIA Top 100 Albums Chart for 2024". Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Jahreshitparade Alben 2024". austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Jaaroverzichten 2024" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Rapports annuels 2024" (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Jaaroverzichten – Album 2024". dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Top 100 Album-Jahrescharts" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2024.
- ^ "Tónlistinn – Plötur – 2024" (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Billboard 200 Albums – Year-End 2024". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2024.
- ^ Mayfield, Geoff (ngày 25 tháng 12 năm 1999). "1999 The Year in Music Totally '90s: Diary of a Decade – The listing of Top Pop Albums of the '90s & Hot 100 Singles of the '90s"". Billboard. tr. YE-20. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021 – qua Google Books.
- ^ "Official Top 100 biggest selling vinyl albums of the decade". Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
- ^ "Discos de oro y platino" (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
- ^ "ARIA Charts – Accreditations – 1996 Albums" (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
- ^ "Chứng nhận album Áo – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
- ^ "Ultratop − Goud en Platina – albums 2022" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2022.
- ^ "Chứng nhận album Brasil – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
- ^ "Chứng nhận album Canada – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Music Canada.
- ^ "Chứng nhận album Đan Mạch – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2022.
- ^ a b "Chứng nhận album Phần Lan – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2011.
- ^ "Chứng nhận album Pháp – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
- ^ "Gold-/Platin-Datenbank (Nirvana; 'Nevermind')" (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
- ^ "Tónlistinn – Plötur" [The Music – Albums] (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Söluviðurkenningar" (bằng tiếng Iceland). Félag hljómplötuframleiðenda. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Chứng nhận album Ý – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2022.
- ^ "Chứng nhận album Nhật Bản – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011. Chọn 2002年11月 ở menu thả xuống
- ^ "Certificaciones" (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Nirvana ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA và Never Mind ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
- ^ "Chứng nhận album Hà Lan – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Nhập Nevermind trong mục "Artiest of titel". Chọn 1994 trong tùy chọn "Alle jaargangen".
- ^ "Chứng nhận album New Zealand – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2024.
- ^ "Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 1999 roku" (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. ngày 22 tháng 9 năm 1999.
- ^ "Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2022 roku" (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2022.
- ^ "Chứng nhận album Bồ Đào Nha – Nirvana – Nevermind" (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2023.
- ^ Cheah, Philip (ngày 21 tháng 8 năm 1993). "Singapore" (PDF). American Radio History (Billboard Archive). tr. SE-26. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2019.
- ^ Solo Exitos 1959–2002 Ano A Ano: Certificados 1991–1995. Solo Exitos 1959–2002 Ano A Ano. 2005. ISBN 84-8048-639-2. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2018.
- ^ "Sverigetopplistan – Nirvana" (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan.
- ^ "The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Nevermind')" (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
- ^ "Chứng nhận album Anh Quốc – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Chứng nhận album Hoa Kỳ – Nirvana – Nevermind" (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2024.
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Nguyên văn tiếng Anh: United States Court of Appeals for the Ninth Circuit
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Classic Albums—Nirvana: Nevermind [DVD]. Isis Productions, 2004.
- Azerrad, Michael. Come as You Are: The Story of Nirvana. Doubleday, 1993. ISBN 0-385-47199-8
- Berkenstadt, Jim; Cross, Charles. Classic Rock Albums: Nevermind. Schirmer, 1998. ISBN 0-02-864775-0
- Cross, Charles. Heavier Than Heaven: A Biography of Kurt Cobain. Hyperion, 2001. ISBN 0-7868-8402-9
- Sandford, Christopher. Kurt Cobain. Carroll & Graff, 1995. ISBN 0-7867-1369-0
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Draper, Jason (2008). A Brief History of Album Covers. London: Flame Tree Publishing. tr. 294–295. ISBN 9781847862112. OCLC 227198538.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Nevermind trên Discogs (danh sách phát hành)
- Nevermind tại MusicBrainz (danh sách phiên bản phát hành)
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “gc”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="gc"/>
tương ứng